Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 84/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 84/2022/HS-ST NGÀY 07/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 3 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 65/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 48/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022 với:

Bị cáo Đặng Quỳnh T, Sinh năm 1989.

Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Nơi cư trú: 84/L, tổ 1, khu phố 12, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Thiên Chúa. Trình độ học vấn: Lớp 8/12. - Nghề nghiệp: Phụ hồ.

Họ tên cha: Đặng Văn T, sinh năm 1960 (còn sống).

Họ tên mẹ: Phạm Thị Hồng T1, sinh năm 1961 (còn sống).

Gia đình có 03 anh em, bị can con là con thứ hai.

Họ tên vợ: Lê Thị Thu H, sinh năm 1991 (đã ly hôn). Bị cáo có một con sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ ngày 17/9/2021, chuyển tạm giam theo Lệnh số 1087/LTG ngày 24/9/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Đặng Quỳnh T là người sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 9 giờ ngày 17/9/2021, Trưởng sử dụng điện thoại di động liên lạc qua mạng xã hội với tài khoản zalo có tên “Trần Thị Thúy An” (không rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi mua ma túy và án hướng dẫn địa điểm mua bán tại hẻm chợ gần quán cà phê “TSB” thuộc khu phố 5, phường A, thành phố B.

Vào khoảng 09 giờ ngày 17/9/2021, T điều khiển xe mô tô hiệu Wave, biển số 60B1-268.49 đến hẻm chợ gần quán cà phê “TSB” thuộc khu phố 5, phường A, thành phố B mua 01 ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) của Thúy A. Sau đó, T cất giấu số ma túy nêu trên trong túi quần bên phải T đang mặc với mục đích sử dụng.

Vào khoảng 09 giờ 40 phút cùng ngày, khi T đang điều khiển xe mô tô hiệu Wave, biển số 60B1-268.49 trên đường Trần Quốc Toản thuộc tổ 2 khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an Phường A kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Quỳnh T khai nhận hành vi phạm tội như trên.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) gói nilon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei : 358554089306454/80;

- 01 (một) xe mô tô hiệu Wave, biển số 60B1-268.49.

* Quá trình điều tra làm rõ:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei : 358554089306454/80 do Trưởng sử dụng liên lạc mua ma túy;

- Kết quả xác minh tại Công an tỉnh Đồng Nai 01 (một) xe mô tô hiệu Wave, biển số 60B1-268.49 do anh Đào Văn N, ngụ tại: khu phố 4, phường B, thành phố B đứng tên đăng ký sở hữu. Anh N khai cho T mượn xe, không biết T sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại xe mô tô nêu trên cho anh Đào Văn N.

- Kiểm tra điện thoại di động của T không phát hiện được thông tin zalo về Thúy An.

* Tại Kết luận giám định số 1859/KLGĐ-PC09 ngày 25/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 0,1020 gam, loại Methamphetamine.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 97/CT-VKSBH-HS ngày 27/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Đặng Quỳnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Đặng Quỳnh T từ 14 (mười bốn) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Buộc bị cáo chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, kết luận giám định, biên bản ghi lời khai người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 09 giờ 40 phút ngày 17/9/2021, tại đường Trần Quốc Toản tổ 2 khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Đặng Quỳnh T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1020 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an phường A kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Đặng Quỳnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản cáo trạng số 97/CT-VKSBH-HS ngày 27/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự; gây tác hại cho sức khỏe và gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là thanh niên đã trưởng thành, có đủ nhận thức và biết ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn cho người sử dụng và đối với xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không - Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để đảm bảo sự nghiêm minh của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu giữ sau giám định;

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei : 358554089306454/80 do liên quan đến hành vi phạm tội.

[4] Về các nội dung khác có liên quan đến vụ án:

- Kết quả xác minh tại Công an tỉnh Đồng Nai 01 (một) xe mô tô hiệu Wave, biển số 60B1-268.49 do anh Đào Văn N, ngụ tại: khu phố 4, phường B, thành phố B đứng tên đăng ký sở hữu. Anh N khai cho T mượn xe, không biết T sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại xe mô tô nêu trên cho anh Đào Văn N là phù hợp.

- Đối với đối tượng tên Thúy A (chưa rõ lai lịch) có hành vi bán ma túy cho Đặng Quỳnh Trưởng, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Đặng Quỳnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Đặng Quỳnh T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 9 năm 2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei : 358554089306454/80 do liên quan đến hành vi phạm tội Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ lượng ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định, được niêm phong trong 01 gói niêm phong số: 1859 ngày 25/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Đặng Quỳnh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 84/2022/HS-ST

Số hiệu:84/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;