Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 53/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 933/2021/HSST, ngày 29/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4858/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2021, đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Chung Hoàng Ngọc N; Giới tính: Nữ; Sinh ngày 10/8/1981 tại: B; Đăng ký hộ khẩu thường trú: tại ấp Sóc Tranh 3, xã Quang Minh, huyện C, tỉnh B. Chỗ ở: Phòng trọ D13, nhà số 125/49A A, Phường 1, Quận A, Thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 4/12; nghề nghiệp: Không; Cha: Chung Huê Q, sinh 1955; Mẹ: Hoàng Thị Đ, sinh 1957; Chồng: Nguyễn Xuân T (đã ly hôn vào năm 2018), con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.Tạm giam từ ngày 29/3/2021. Có mặt tại phiên tòa.

2/ Họ và tên: Nguyễn Huy Đ; Giới tính: Nam; Sinh ngày 17/5/1993 tại: Bình Thuận; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 3, Tầm Hưng, thị trấn Ma Lâm, huyện H, tỉnh B; Chỗ ở: Phòng trọ D13, nhà số 125/49A A, Phường 1, Quận A, Thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Không; Cha: Nguyễn Văn Đ, (chết); Mẹ: Nguyễn Thị N, sinh 1964; vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Tạm giam từ ngày 29/3/2021. Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 29/3/2021, tại phòng trọ D13, nhà số 125/49A A, Phường 1, Quận A, Thành phố H. Đội Cảnh sát điều tra về tội phạm Ma túy, Công an Quận A phát hiện bắt quả tang phát hiện bắt quả tang Hồ Văn H, Chung Hoàng Ngọc N, Nguyễn Huy Đ có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy với mục đích mua bán và thu trên sàn nhà phòng trọ D13 có 119,2341gam, ma túy loại Methamphemine; trên bàn đối diện cửa ra vào thu giữ 01 hộp nhựa màu trắng bên trong chứa 05 gói nylon có khối lượng là 4,6063 gam, là ma túy loại Methamphetamine. Lúc 19 giờ cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận A khám xét khẩn cấp phòng trọ D13, nhà số 125/49A A, Phường 1, Quận A, Thành phố H. Qua khám xét phát hiện và thu giữ trên bàn cạnh nhà vệ sinh có 07 gói nylon khối lượng là 10,0238 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Toàn bộ số ma túy thu giữ đã được trưng cầu giám định, kết quả thể hiện tại bản Kết luận giám định số 2112/KLGĐ-H ngày 07/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố H.

Quá trình điều tra Hồ Văn H khai nhận: Khoảng tháng 03/2021, qua bạn bè ngoài xã hội, H quen biết với Đỗ Thị Hoàng M (không rõ lai lịch), M có tham gia mua bán ma tuý với người tên Hữu (không rõ lai lịch), M giới thiệu H cho Hữu biết để tham gia mua bán ma tuý. Nhiệm vụ của H là nhận ma tuý khi Hữu giao và phân chia bán cho khách. H cùng với Chung Hoàng Ngọc N và Nguyễn Huy Đ tham gia mua bán ma tuý từ nguồn ma tuý của A. Khoảng 04 - 05 ngày thi A sẽ kêu người mang ma tuý đá (khoảng 50 gam) giao cho H để phân chia bán cho khách. Riêng 02 lần gần nhất, cụ thể:

Ngày 27/3/2021, A kêu người tên P (không rõ lai lịch) giao cho H 01 hộp thiếc bên trong có 02 gói ma tuý đá (khoảng 50g).

Ngày 28/3/2021, A kêu người tên P giao cho H 01 hộp giấy bọc nylon màu hồng bên trong chứa 06 gói ma tuý đá. Toàn bộ số ma tuý đá của 02 ngày trên H mang qua phòng trọ D13 để giao lại cho N, Đ để phân chia bán cho khách nhưng chưa kịp bán thì bị bắt như nêu trên. A trả công cho H là 1.000.000 đồng /01 ngày, N là 500.000 đồng /01 ngày và Đ là 50.000 đồng /01 lượt đi giao ma tuý.

Chung Hoàng Ngọc N khai nhận: Khoảng cuối tháng 02/2021, qua bạn bè ngoài xã hội thì N quen biết và đến ở chung với Đỗ Thị Hoàng M (không rõ lai lịch) tại phòng trọ D13, nhà số 125/49A A, Phường 1, Quận A. Khi ở chung, N biết M có mua bán ma tuý và M đề nghị N cùng tham gia và sẽ được trả tiền công thì N đồng ý. M giới thiệu H cho N biết. H là người cung cấp và phân chia ma tuý để giao lại cho N đem đi bán cho khách. Riêng 02 lần gần nhất, cụ thể:

Ngày 27/3/2021, H giao cho N 08 gói ma tuý đá và N đã bán được 02 gói với số tiền là 800.000 đồng. Số ma tuý đá còn lại, N cất 05 gói vào hộp thiếc màu xanh ghi chữ Mentos và 01 gói cất vào hộp giấy ghi chữ ELPIS và cất giấu tại phòng trọ D13.

Ngày 28/3/2021, H giao cho N 10 gói ma tuý đá và N đã bán được 04 gói với số tiền là 1.800.000đ. số ma tuý đá còn lại, N cất 05 gói vào hộp giấy màu trắng và 01 gói cất vào hộp giấy màu vàng cất giấu tại phòng trọ D13.

Sau đó, N giới thiệu Đ cho H biết nên đã cùng Đ tham gia giao ma tuý cho người mua từ nguồn ma tuý của H được cất giấu tại phòng trọ D13, nhà số 125/49A. N đã đưa ma tuý cho Đ đi giao được 02 lần vào ngày 26, 28/3/2021.

Nguyễn Huy Đ khai: Đ là bạn trai của N ở chung tại phòng trọ D13, nhà số 125/49A A, Phường 1, Quận A, Thành phố H. Khoảng 10 ngày trước khi bị bắt, N giới thiệu Đ cho H biết để cùng tham gia mua bán ma tuý N đã 02 lần đưa ma tuý cho Đ đem đi giao cho khách tại phòng trọ D13, cụ thể:

Lần 01: Ngày 26/3/2021, H kêu N giao cho Đ 01 gói ma tuý đá giá 500.000đ đem giao cho khách mua tại khu vực Quận C, Thành phố H. Sau đó, Đ đem tiền về đưa lại N.

Lần 02: Ngày 28/3/2021, H kêu N giao cho Đ 01 gói ma tuý đá giá 3.400.000đ lấy ra từ trong 01 hộp thiếc hình tròn để đem giao cho khách mua tại khu vực Quận B, Thành phố H. Sau đó, Đ đem tiền về đưa lại N.

Đối với Phạm Tấn Lợi đến phòng trọ D13 để chờ gặp N mua 01 gói ma tuý đá giá 300.000 đồng nhưng Lợi chưa kịp mua thì bị Công an kiểm tra mời về trụ sở công an để làm việc. Kết quả xét nghiệm Phạm Tấn L dương tính với chất ma tuý. Do đó, Công an Quận A đã bàn giao L cho Công an Phường 1, Quận A xử lý về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý theo quy định.

Ngày 03/7/2021, bị can Hồ Văn H đã chết tại Bệnh viện 30/4 - Bộ Công an do suy hô hấp cấp, sốc nhiễm trùng, viêm phổi, dương tính với Covid - 19 nên ngày 13/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với Hồ Văn H.

Đối với với Đỗ Thị Hoàng M do có liên quan đến vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã ra Thông báo truy tìm nhưng đến nay vẫn chưa tìm được để làm việc với M. Khi nào tìm được và làm rõ hành vi của M thì Cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra xử lý theo quy định.

Đối với đối tượng tên A, P do Hồ Văn H khai không biết về nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Vật chứng của vụ án: đã được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng của Phòng Cảnh sát điều tra (PC04) và Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (PC10) Công an Thành phố H, gồm có:

- 02 gói niêm phong số 571/2021 (gói 1, 2) bên ngoài có chữ ký của giám định viên Phan Hoàng Trạc và cán bộ điều tra Nguyễn Hữu Phúc, bên trong là mẫu còn lại sau giám định.

* Thu giữ của Hồ Văn H:

- 01 cân tiểu ly; 01 hộp thiếc hình tròn; 01 hộp giấy màu vàng; 01 hộp giấy có bọc nylon màu hồng; 01 hộp giấy ghi chữ ELPIS; 01 cây kéo; 01 bình sử dụng ma tuý; 20 túi nylon.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh, bị can H khai nhận dùng để liên lạc cá nhân và liên lạc mua bán ma tuý.

- 01 xe gắn máy biển số 59D1 - xxxxx, hiệu Honda, loại Sh Mode, có số khung, số máy không thay đổi. Qua xác minh, xe trên do bà Lê Hoàng Anh T , sinh năm 1979; hộ khẩu thường trú tại 101 Lô B, Chung cư Gò Dầu 2, phường Tân Sơn Nhì, quận T, Thành phố H; Chỗ ở: 39/4 Hồ Đắc Di, phường Tây Thạnh, quận T, Thành phố H đứng tên chủ sỡ hữu. Ngày 21/02/2019, bà T đã làm hợp đồng uỷ quyền mua bán xe trên với ông Nguyễn Thế M. Ngày 22/02/2019, ông M đã bán xe trên ông Nguyễn Văn Th . Ngày 07/6/2020, ông Phạm Công C là ba vợ của bị can Hồ Văn H mua xe gắn máy biển số 59D1 - xxxxx với giá 50.000.000 đồng. Đến khoảng 09 giờ ngày 29/3/2021, Hồ Văn H đến nhà ông C và hỏi mượn xe máy biển số 59D1 - xxxxx để đi công việc nhưng không nói đi đâu, làm gì. Lời khai của bị can H là phù hợp với lời khai của ông C . Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả xe trên cho ông Phạm Công C .

- Số tiền 1.000.000 đồng đã được gửi vào tài khoản của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H tại Kho bạc Nhà nước Quận G.

* Thu giữ của Chung Hoàng Ngọc N:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, bị can N khai nhận dùng để liên lạc cá nhân và liên lạc mua bán ma tuý.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, bị can N khai nhận dùng để liên lạc cá nhân.

- Số tiền 1.000.000 đồng đã được gửi vào tài khoản của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H tại Kho bạc Nhà nước Quận G.

*Thu giữ bị can Nguyễn Huy Đ:

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh, bị can Đ khai nhận dùng để liên lạc cá nhân và liên lạc mua bán ma tuý.

- 01 xe gắn máy biển số 86B3 - xxxxx, hiệu Honda, loại Air Blade, số khung, số máy không thay đổi. Xe trên do bị can Nguyễn Huy Đ đứng tên chủ xe. Bị can Đ khai nhận mua xe trên từ tháng 07/2014 để dùng làm phưong tiện đi lại. Khi bắt giữ Đ thì có tạm giữ xe gắn máy nêu trên Tại bản cáo trạng số 496/CT-VKS-P1 ngày 19/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố bị cáo Chung Hoàng Ngọc N, Nguyễn Huy Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, điểm i , Khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b, điểm i , Khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Chung Hoàng Ngọc N: 08 đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Nguyễn Huy Đ: 07 đến 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” . Phạt bổ sung mỗi bị cáo 5.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước;

Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo đồng ý với cáo trạng truy tố không tranh luận bổ sung - Lời nói sau cùng của các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của họ. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định, bản tự khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 29/3/2021, tại phòng trọ D13, nhà số 125/49A A, Phường 1, Quận A, Thành phố H. Đội Cảnh sát điều tra về tội phạm Ma túy, Công an Quận A phát hiện bắt quả tang phát hiện bắt quả tang Hồ Văn H, Chung Hoàng Ngọc N, Nguyễn Huy Đ có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy với mục đích mua bán và thu trên sàn nhà phòng trọ D13 có 119,2341gam, ma túy loại Methamphemine của H. Thu của Đ, N tổng cộng 14,6301 gam, ma túy loại Methamphemine. Ngày 27 và 28/3/2021, N đã đi giao ma túy cho H. Ngày 26 và 28/3/2021, Đ đã đi giao ma túy cho H Hồ Văn H phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với toàn bộ số ma túy chuẩn bị đưa cho Chung Hoàng Ngọc N, Nguyễn Huy Đ đi bán trái phép và khám xét tại nhà phòng trọ D13 thu giữ tổng khối lượng là 133,8642 gam, loại Methamphetamine. Tuy nhiên, ngày 03/7/2021, bị can Hồ Văn H đã chết tại Bệnh viện 30/4 - Bộ Công an do suy hô hấp cấp, sốc nhiễm trùng, viêm phổi, dương tính với Covid - 19 nên ngày 13/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với Hồ Văn H.

Chung Hoàng Ngọc N, Nguyễn Huy Đ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với số lần bán ma túy cho H và số ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang có tổng khối lượng 14,6301 gam loại Methamphetamine.

Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”, tội phạm, hình phạt được quy định tại điểm b, điểm i , Khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cao cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng phạt nghiêm khắc, nhưng vì thu lợi nhuận cao đã bất chấp H quả và cố ý phạm tội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có

 [5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xem xét hành vi của các bị cáo, tính chất, mức độ, động cơ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo, xét cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử xét thấy cần phạt bổ sung đối với các bị cáo một số tiền để nộp ngân sách nhà nước.

Trên đây cũng là quan điểm lập luận của Hội đồng xét xử đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và các bị cáo.

[6] Xét về xử lý vật chứng, án phí:

- Điện thoại, xe máy, tiền thu giữ của các bị cáo liên quan đến ma túy nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Vật chứng còn lại không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Các bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b,i khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Chung Hoàng Ngọc N: 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/3/2021.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Căn cứ điểm b,i khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy Đ: 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 29/3/2021.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01/01/2017.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 cân tiểu ly; 01 điện thoại di động Samsung màu xanh (không kiểm tra được số sim, do không có nguồn điện, số imei:…189403/3); 01 điện thoại Samsung (không kiểm tra được model do không có nguồn điện); 01 điện thoại iphone, imei: 352072062361194; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh (không kiểm tra được sim số do không có nguồn điện, có chữ Reno); 01 xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu Honda, số loại Airblade, dung tích xilanh 124, BS: 86B3-xxxxx; SK: RLHJF4617EY318653 (sét mờ), SM: JF46R-5018706 (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra);

Tịch thu tiêu hủy: 02 gói niêm phong số 571/2021 (gói 1,2) bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Phan Hoàng Trạc và Cán bộ điều tra Nguyễn Hữu Phúc, bên trong là ma túy còn lại sau giám định (khối lượng khoảng 130,1298g);

01 chiếc hộp thiếc hình tròn; 01 hộp giấy màu vàng; 01 hôp giấy có bọc nylon màu hồng, 01 hộp giấy ghi chữ ELPIS; 01 cây kéo; 01 bình sử dụng ma túy.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2022/002 ngày 04/10/2021 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H).

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 53/2022/HS-ST

Số hiệu:53/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;